Chào mừng các bạn trở lại với kho tàng thành ngữ Trung Quốc của chúng mình , hôm nay mình sẽ dẫn các bạn đến với câu truyện thành ngữ Trung Quốc có tên là “Người mù xem voi ” (Manh nhân mô tượng). Hãy cùng mình tìm hiểu nhé!
1.Tìm hiểu phần Hán tự và Pinyin của thành ngữ “Manh nhân mô tượng” (Người mù xem voi)
Dưới đây là Hán tự và phiên âm pinyin của thành ngữ “Người mù xem voi”.
盲人摸象 (Mángrénmōxiàng)
很久很久以前,在一个叫印度的国家,有一位国王,他心地善良,很乐意帮助别人。
Hěnjiǔ hěnjiǔ yǐqián, zài yīgè jiào yìndù de guójiā, yǒuyī wèi guówáng, tā xīndì shànliáng, hěn lèyì bāngzhù biérén.
有一次几个盲人互相搀扶着来到王宫,求见国王,国王问他们:“有什么事情我可以帮你们吗?”
Yǒuyīcì jǐ gè mángrén hùxiāng chānfúzhe lái dào wánggōng, qiújiàn guówáng, guówáng wèn tāmen:“Yǒu shé me shìqíng wǒ kěyǐ bāng nǐmen ma?”
盲人们说:“感谢国王陛下的仁慈,我们天生就什么也看不见,听人家说大象是一种个头巨大的动物,可是我们怎么也想不出来它有多大,我们想请求陛下让我们亲手摸一摸大象,也好知道大象究竟是什么样子的?”
Mángrénmen shuō:“Gǎnxiè guówáng bìxià de réncí, wǒmen tiānshēng jiù shénme yě kàn bùjiàn, tīng rénjiā shuō dà xiàng shì yī zhǒng gètóu jùdà de dòngwù, kěshì wǒmen zěnme yě xiǎng bù chūlái tā yǒu duōdà, wǒmen xiǎng qǐngqiú bìxià ràng wǒmen qīnshǒu mō yī mō dà xiàng, yě hǎo zhīdào dà xiàng jiùjìng shì shénme yàngzi de?”
国王很高兴地答应了,就命令手下的大臣说:“你去牵一头大象来这儿,让这几个盲人摸一摸,也好满足他们的心愿。”
Guówáng hěn gāoxìng de dāyìngle, jiù mìnglìng shǒuxià de dàchén shuō:“Nǐ qù qiān yītóu dà xiàng lái zhè’er, ràng zhè jǐ gè mángrén mō yī mō, yě hǎo mǎnzú tāmen de xīnyuàn.”
大臣遵命去了,不一会儿,大臣就牵着大象回来了。
Dàchén zūnmìng qùle, bù yīhuǐ’er, dàchén jiù qiānzhe dà xiàng huíláile.
于是,几个盲人高高兴兴地朝大象走了过去。
Yúshì, jǐ gè mángrén gāo gāoxìng xìng de cháo dà xiàng zǒule guòqù.
大象实在太大了,他们几个人有的摸到了大象的鼻子,有的摸到了大象的耳朵,有的摸到大象的牙齿,有的摸到了大象的身子,还有的摸到了大象的腿,也有的抓住了大象的尾巴。他们都以为自己摸到的就是大象。
Dà xiàng shízài tài dàle, tāmen jǐ gèrén yǒu de mō dàole dà xiàng de bízi, yǒu de mō dàole dà xiàng de ěrduǒ, yǒu de mō dào dà xiàng de yáchǐ, yǒu de mō dàole dà xiàng de shēnzi, hái yǒu de mō dàole dà xiàng de tuǐ, yěyǒu de zhuā zhùle dà xiàng de wěibā. Tāmen dōu yǐwéi zìjǐ mō dào de jiùshì dà xiàng.
于是,他们仔仔细细地摸呀想啊,过了好一会儿,等他们摸得差不多了,国王就问:“现在你们明白大象是什么样子了吧?”几个盲人很兴奋地回答说:“明白了,明白了!”
Yúshì, tāmen zǐ zǐxì xì de mō ya xiǎng a,guòle hǎo yīhuǐ’er, děng tāmen mō dé chàbùduōle, guówáng jiù wèn:“Xiànzài nǐmen míngbái dà xiàng shì shénme yàngzile ba?” Jǐ gè mángrén hěn xīngfèn de huídá shuō:“Míngbáile, míngbáile!”
国王说:“那你们都说说看,大象是什么样子的呀!”
Guówáng shuō:“Nà nǐmen dōu shuō shuō kàn, dà xiàng shì shénme yàngzi de ya!”
第一个人说:“大象啊,就像又粗又长的一根管子。”原来这个人刚才一直在摸象的鼻子。
Dì yī gèrén shuō:“Dà xiàng a, jiù xiàng yòu cū yòu zhǎng de yī gēn guǎn zi.” Yuánlái zhège rén gāngcái yīzhí zài mō xiàng de bízi.
第二个人马上抢着说:“不对不对,大象又扁又大又宽,就像一把扇子。”原来这个人摸的是大象的耳朵。
Dì èr gèrén mǎshàng qiǎngzhe shuō:“Bùduì bùduì, dà xiàng yòu biǎn yòu dà yòu kuān, jiù xiàng yī bǎ shànzi.” Yuánlái zhège rén mō de shì dà xiàng de ěrduǒ.
这时候,第三个人不高兴了,“你们说的都不对,大象啊像一根大萝卜。”原来他摸的是象的牙齿。
Zhè shíhòu, dì sān gèrén bù gāoxìngle,“nǐmen shuō de dōu bùduì, dà xiàng a xiàng yī gēn dà luóbo.” Yuánlái tā mō de shì xiàng de yáchǐ.
这时候,有一个人说了,“大象明明是又厚又大,就像一堵墙一样嘛,他呀摸的是象的身子。”
Zhè shíhòu, yǒu yī gèrén shuōle,“dà xiàng míngmíng shì yòu hòu yòu dà, jiù xiàng yī dǔ qiáng yīyàng ma, tā ya mō de shì xiàng de shēnzi.”
这时候,摸到象腿的人也说话了,“我说呀,大象就像一根柱子。”
Zhè shíhòu, mō dào xiàng tuǐ de rén yě shuōhuàle,“wǒ shuō ya, dà xiàng jiù xiàng yī gēn zhùzi.”
最后抓到尾巴的人,慢条斯理地说:“你们都错了,依我看,大象又细又长,活像一根绳子。”
Zuìhòu zhuā dào wěibā de rén, màntiáosīlǐ de shuō:“Nǐmen dōu cuòle, yī wǒ kàn, dà xiàng yòu xì yòu zhǎng, huóxiàng yī gēn shéngzi.”
这五个人互相争吵着,谁都说自己摸到的才是大象,别人摸到的不对。
Zhè wǔ gè rén hùxiāng zhēngchǎozhe, shéi dōu shuō zìjǐ mō dào de cái shì dà xiàng, biérén mō dào de bùduì.
盲人摸象这个成语,比喻对事物只凭片面的了解或局部的经验,就乱加猜测,想做出全面的判断,以偏概全,不能了解真相。
Mángrénmōxiàng zhège chéngyǔ, bǐyù duì shìwù zhǐ píng piànmiàn de liǎojiě huò júbù de jīngyàn, jiù luàn jiā cāicè, xiǎng zuò chū quánmiàn de pànduàn, yǐ piān gài quán, bùnéng liǎojiě zhēnxiàng.
2. Nội dung của câu truyện thành ngữ Trung Quốc “Người mù xem voi”
Người mù xem voi (Manh nhân mô tượng)
Cách đây rất lâu, ở một đất nước tên là Ấn Độ, có một vị vua tốt bụng và luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác.
Một lần nọ , có vài người mù dìu nhau đến cung điện, xin được gặp đức vua, nhà vua hỏi họ: “Ta có thể giúp gì cho các ngươi không?” Những người mù nói: “Chúng thần xin cảm ơn vì lòng tốt của bệ hạ. Chúng thần từ khi sinh ra đã không thấy gì cả. Lại nghe nói voi là một con vật to lớn, nhưng chúng thần không thể biết được nó lớn như thế nào. Chúng thần muốn hỏi xin Bệ hạ để cho chúng thần đích thân sờ vào con voi, để có thể biết được nó thực sự trông như thế nào? ”
Nhà vua vui vẻ đồng ý, ra lệnh cho các quan đại thần rằng: “Hãy đem một con voi đến đây, để những người mù này sờ vào, để thỏa lòng mong ước của họ”.
Đại thần liền làm theo lệnh, một lúc sau cùng voi trở về.
Vì thế, những tên mù hứng khởi đi về phía con voi.
Con voi to quá. Có người trong số họ chạm vào vòi voi, người thì chạm vào tai voi,có người thì sờ răng voi, có người thì lại chạm vào thân voi, có người trong số họ còn nắm lấy đuôi voi. Tất cả họ đều cho rằng họ đã thực sự đã chạm vào con voi.
Thế nên, từng người bọn họ tỉ mỉ cẩn thận sờ rồi suy nghĩa, ,một lát sau, nhìn thấy bọn họ sờ được một lúc rồi, nhà vua liền hỏi : “Bây giờ các ngươi đã biết con voi như thế nào chưa” Những tên người mù đều vui vẻ đáp :”Rõ rồi ạ! rõ rồi ạ!”
Nhà vua nói : “Vậy các người từng người hãy nói ta nghe xem , con voi ra làm sao?”
Người đầu tiên nói : “Con voi vừa thô vừa dài như cái ống”. Hóa ra người này từ nảy giờ sờ là cái mũi của voi.
Người thứ hai lập tức nói chen vào :”Không đúng không đúng, còn voi vừa dài vừa to vừa rộng, giống như cái quạt vậy.” Hóa ra người này là sờ vào tai voi.
Lúc này, người thứ ba cảm thấy không vui mà nói ,” Các anh nói sai cả rồi, con voi á, nó giống như một cái củ cái.” Hóa ra người này là chạm vào răng voi.
Cũng lúc đó , có người lại nói “Con voi vừa đầy đặn vừa to, giống như bức tường vậy mà, ” Anh ta là sờ vào cái thân voi.
Ngay lúc đó , người sờ vào chân voi cũng nói “Để tôi nói cho, con voi giống như cái cột vậy đó!”
Cuối cùng người sờ vào cái đuôi voi ung dung từ tốn mà nói : “Các anh đều sai cả rồi, theo như tôi thấy thì con voi vừa mảnh vừa dài nhúc nhích như cộng dây thừng vậy”.
Năm người liền tranh cãi dữ dội, ai cũng nói rằng cái mình sờ được mới là con voi, người khác đều không đúng.
Thành ngữ “Manh nhân mô tượng” (Người mù xem voi) là một ẩn dụ về việc những người chỉ đưa ra những suy đoán ngẫu nhiên về một sự việc dựa trên sự hiểu biết và kinh nghiệm từ một chiều ,muốn đưa ra phán đoán toàn diện, cho một mặt vấn đề đó là tất cả sự việc mà không hiểu được chân tướng sự thật là gì.
Related Posts
Thủy trung lao nguyệt 水中捞月 (Vớt trăng dưới nước): thành ngữ Trung Quốc
Bổ ngữ kết quả